Nghị quyết hướng dẫn áp dụng về các tội liên quan đến vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
(binhthuan.gov.vn) Ngày
09/9/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết số
03/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 304, Điều 305, Điều
306, Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm
2017) về các tội liên quan đến vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và phương
tiện kỹ thuật.
Về
một số tình tiết là dấu hiệu định tội, tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết nêu rõ: “Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”
quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là làm mới hoàn toàn hoặc lắp
ráp từ những bộ phận chi tiết của vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của chúng mà không được sự cho
phép của cơ quan có thẩm quyền. Cũng được coi là chế tạo trái phép vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự đối với trường hợp cơ sở sản xuất của lực
lượng vũ trang và những cơ sở khác có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (theo
danh mục) nhưng lại sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự loại khác (ngoài danh mục) hoặc chế tạo nhiều hơn số lượng cho phép,
trừ trường hợp nghiên cứu cải tiến sản xuất vũ khí mới theo đề tài khoa học đã
được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Theo
khoản 2 Điều 3 Nghị quyết quy định: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” quy định tại khoản 1 Điều 304
của Bộ luật Hình sự là cất giữ vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nơi tàng trữ có thể là
nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cất giấu bất kỳ
ở một vị trí nào khác mà người phạm tội đã chọn. Cũng được coi là tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự đối với trường hợp vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự có từ bất kỳ nguồn nào (ví dụ: cho,
tặng, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố, thế chấp, đào được, nhặt
được) mà không khai báo, giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên
cạnh đó, theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết: “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự” quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là hành vi
chuyển dịch vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự từ nơi này đến nơi
khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia
này sang quốc gia khác hoặc hành vi khác chuyển dịch vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự khác mà không có mệnh lệnh của người có thẩm quyền hoặc
giấy phép vận chuyển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng bất kỳ phương tiện
nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng không nhằm mục đích mua bán.
Cũng
theo Nghị quyết, “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự” quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật
Hình sự là sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không có
giấy phép hoặc không được phép của người hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm phát huy tác dụng của vũ khí, phương tiện đó. Ví dụ: Hành vi sử dụng súng
quân dụng là lên đạn, bóp cò; hành vi sử dụng lựu đạn là rút chốt, giật nụ xuỳ.
Hành vi “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”
là hành vi mua bán không có giấy phép hoặc không được phép của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Hành
vi “Chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”
quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự bao gồm các hành vi cướp,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm cắp, lừa đảo chiếm
đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt hoặc các hành vi chiếm đoạt khác. Cũng được
coi là chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khi quân nhân,
nhân viên, công nhân quốc phòng và những người khác được trang bị vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự để thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công
tác đến khi xuất ngũ, phục viên, nghỉ việc về hưu hoặc chuyển sang công tác
khác không còn được phép sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
nhưng đã cố ý không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước.
Việc
“Chế tạo trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 1
Điều 305 của Bộ luật Hình sự là hành vi làm ra, chế biến, pha chế tạo ra vật
liệu nổ mà không được sự cho phép của cơ quan, người có thẩm quyền. Cũng được
coi là chế tạo trái phép vật liệu nổ đối với những cơ sở, doanh nghiệp được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng lại chế tạo vật liệu nổ khác nằm
ngoài danh mục hoặc chế tạo nhiều hơn số lượng cho phép. Trừ một số trường hợp
đặc biệt được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt.
Mặt
khác, tại khoản 8 Điều 3 Nghị quyết hướng dẫn: Các hành vi “tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ” quy định tại khoản 1 Điều 305 và “tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ” quy
định tại khoản 1 Điều 306 của Bộ luật Hình sự được áp dụng theo hướng dẫn tại
các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này. Ngoài ra, khoản 9 Điều 3 Nghị quyết nêu rõ:
“Vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử
dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán hoặc tiêu hủy vũ khí quân dụng,
súng sẵn, vũ khí thể thao, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ” quy định tại
khoản 1 Điều 307 của Bộ luật Hình sự là không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng về quản lý việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ,
vận chuyển, mua bán hoặc tiêu hủy vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thể thao,
vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Định
hướng về một số tình tiết định tội, Nghị quyết còn hướng dẫn về một số tình
tiết định khung hình phạt; việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số
trường hợp cụ thể; truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có khả năng
thực tế dẫn đến hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người
khác theo quy định tại khoản 4 Điều 307 của Bộ luật Hình sự./.
Hải
Lam Phương