(binhthuan.gov.vn)
Quy định khai thác nhà, đất là tài sản công không sử
dụng để ở; quy định về hành nghề công tác xã hội
là một số chính sách mới có hiệu lực trong tháng 10.
Quy định việc khai thác nhà, đất là tài sản công
không sử dụng để ở
Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2024/NĐ-CP quy định
việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất là tài
sản công không sử dụng vào mục đích để ở giao cho
tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa
phương quản lý, khai thác.
Nghị định này quy định việc quản lý, sử dụng và
khai thác nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất
là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở
(sau đây gọi là nhà, đất) giao cho tổ chức có chức
năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai
thác với mục đích: Cho thuê nhà (gắn với quyền sử
dụng đất); Tạm quản lý trong thời gian chờ thực hiện
xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật.
Nghị định yêu cầu việc quản lý, sử dụng và khai
thác nhà, đất phải đảm bảo hiệu quả, giải quyết
nhu cầu về nhà, đất phục vụ nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội của địa phương; công khai, minh bạch,
đúng pháp luật.
Việc giao nhà, đất cho tổ chức quản lý, kinh doanh nhà
quản lý, khai thác được thực hiện theo hình thức ghi
tăng tài sản và giá trị tài sản không tính thành phần
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Tổ chức quản lý, kinh doanh nhà; tổ chức, cá nhân thuê
nhà; cơ quan, tổ chức, đơn vị được bố trí nhà, đất
sử dụng tạm thời thực hiện đầy đủ trách nhiệm
theo quy định.
Việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất phải
được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán theo quy
định của pháp luật; mọi hành vi vi phạm pháp luật về
quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất phải được
phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo quy định của
pháp luật.
Theo quy định, việc cho thuê nhà (gắn với quyền sử
dụng đất) của tổ chức quản lý, kinh doanh nhà được
thực hiện theo phương thức đấu giá, trừ các trường
hợp thực hiện theo phương thức niêm yết giá.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2024.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định mới về quản
lý, sử dụng tài sản công
Chính phủ ban hành Nghị định số 114/2024/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP
ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Trong đó, Nghị định số 114/2024/NĐ-CP sửa đổi Điều
3 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP về mua sắm tài sản công
phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước.
Theo quy định mới, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
quyết định mua sắm tài sản công trong trường hợp phải
lập thành dự án được thực hiện theo quy định của
pháp luật khác có liên quan.
Thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản công trong
trường hợp không thuộc phạm vi quy định trên được
thực hiện như sau:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương (Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan Trung ương) quy định thẩm quyền quyết
định mua sắm tài sản công phục vụ hoạt động của
cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý của bộ, cơ
quan Trung ương.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định thẩm quyền
quyết định mua sắm tài sản công phục vụ hoạt động
của cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa
phương.
Nghị định số 114/2024/NĐ-CP quy định căn cứ phạm vi
dự toán ngân sách được giao và nguồn kinh phí được
phép sử dụng, cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện
mua sắm tài sản theo quy định của pháp luật về đấu
thầu.
Việc tổ chức thực hiện mua sắm tài sản theo phương
thức tập trung được thực hiện theo quy định của pháp
luật về đấu thầu và quy định tại Chương VI Nghị
định này.
Việc mua sắm tài sản quy định trên không bao gồm mua
sắm dịch vụ phục vụ hoạt động của cơ quan nhà
nước. Việc mua sắm dịch vụ phục vụ hoạt động của
cơ quan nhà nước được thực hiện theo quy định của
pháp luật có liên quan.
Nghị định số 114/2024/NĐ-CP cũng bổ sung thêm Điều 3a
quy định mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công là
vật tiêu hao phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước.
Ngoài ra, Nghị định cũng sửa đổi Điều 4 Nghị định
số 151/2017/NĐ-CP về thuê tài sản phục vụ hoạt động
của cơ quan nhà nước.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 30/10/2024.
Các Điều 96, 97, 98 và 99 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP
hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2025.
Nghiêm cấm hành nghề công tác xã hội để trục lợi
Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2024/NĐ-CP về công
tác xã hội; trong đó, quy định cụ thể 6 hành vi bị
nghiêm cấm trong công tác xã hội.
Theo Nghị định 110/2024/NĐ-CP, công tác xã hội là hoạt
động hỗ trợ cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng
giải quyết các vấn đề xã hội.
Đối tượng công tác xã hội là cá nhân, nhóm, gia đình
và cộng đồng có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác
xã hội (sau đây gọi là đối tượng).
Công tác xã hội có chức năng hỗ trợ phòng ngừa; can
thiệp, trị liệu; hỗ trợ phục hồi, phát triển đối
tượng nhằm bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng hạnh
phúc của người dân; góp phần bảo đảm thực hiện
quyền, nhân phẩm, giá trị của con người, công bằng và
bình đẳng xã hội theo quy định của pháp luật.
Nghị định cũng quy định rõ 06 hành vi bị nghiêm cấm
trong công tác xã hội:
Cung cấp, công bố, tiết lộ, phá hủy thông tin, dữ liệu
cá nhân của đối tượng mà không được sự đồng ý
của đối tượng hoặc người giám hộ hoặc người đại
diện trừ trường hợp cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Từ chối cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho đối
tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp, trừ trường hợp
bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
Lợi dụng việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội để
trục lợi hoặc có hành vi vi phạm pháp luật.
Lợi dụng hành nghề công tác xã hội để trục lợi chế
độ, chính sách của nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ
của tổ chức, cá nhân.
Thu các khoản chi phí, lợi ích ngoài khoản thù lao và chi
phí được thỏa thuận thống nhất với tổ chức, cá
nhân trong hợp đồng cung cấp dịch vụ công tác xã hội,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Lợi dụng hành nghề công tác xã hội, cung cấp dịch vụ
công tác xã hội để xâm phạm lợi ích Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Nghị định quy định cụ thể về dịch vụ công tác xã
hội. Đây là dịch vụ do tổ chức, cá nhân đủ điều
kiện cung cấp hoạt động công tác xã hội thực hiện
nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội của cá
nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2024.
Quy định đánh số nhà tại khu vực đô thị, nông
thôn
Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 08/2024/TT-BXD quy định
đánh số và gắn biển số nhà, công trình xây dựng.
Trong đó quy định rõ cách đánh số nhà tại khu vực đô
thị, khu vực nông thôn.
Đánh số nhà mặt đường, phố:
Theo Thông tư quy định, đánh số nhà mặt đường, phố
được sử dụng dãy số tự nhiên (1, 2, 3..., n) với thứ
tự từ số nhỏ đến số lớn theo chiều quy định. Nhà
bên trái lấy số lẻ (1, 3, 5, 7...), nhà bên phải lấy số
chẵn (2, 4, 6, 8...).
Trường hợp một nhà có cửa mở ra hai đường, phố
khác nhau thì nhà đó được đánh số theo đường, phố
có mặt cắt ngang lớn hơn; nếu các đường, phố có mặt
cắt ngang tương đương thì đánh số nhà theo đường,
phố có cửa chính vào nhà hoặc đánh số theo đường,
phố đã được đánh số liên tục.
Chiều đánh số nhà mặt đường, phố thực hiện theo
quy định sau đây: Chiều đánh số nhà được thực hiện
theo hướng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ
Đông Bắc sang Tây Nam, từ Đông Nam sang Tây Bắc.
Trường hợp đường, phố đặc thù không thực hiện
theo quy định tại điểm a khoản này thì chiều đánh số
nhà do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định (ví dụ:
đường, phố dạng hướng tâm thì chiều đánh số nhà
được thực hiện từ trung tâm thành phố, tỉnh, quận,
huyện, thị xã, thị trấn hướng ra phía ngoài trung tâm).
Các đường, phố đã được đánh số nhà trước khi
Thông tư này có hiệu lực thì giữ nguyên chiều đánh số
nhà.
Đối với đường, phố chưa có nhà xây liên tục (còn
đất trống), Ủy ban nhân dân cấp huyện căn cứ quy
hoạch chi tiết xây dựng trên tuyến đường, phố được
cấp có thẩm quyền phê duyệt để đánh số nhà và đảm
bảo có số nhà dự phòng đối với nhà, công trình cho
tuyến đường, phố đó; trường hợp chưa có quy hoạch
chi tiết xây dựng về tuyến đường, phố thì Ủy ban
nhân dân cấp huyện quyết định tổ chức thực hiện
đánh số và gắn biển số nhà để đảm bảo phù hợp
với điều kiện cụ thể của từng khu vực.
Trường hợp phát sinh nhà chưa được đánh số nằm giữa
hai nhà đã được đánh số liên tục trên đường, phố
thì các nhà mới phát sinh được lựa chọn đánh số
theo một trong 02 cách sau:
Đánh số bằng tên ghép của số nhà nhỏ hơn và chữ
cái in hoa tiếng Việt (A, B, C,...), bắt đầu từ chữ A
(ví dụ: số nhà phát sinh giữa hai nhà số 20 và số 22
thì đánh số 20A, 20B, 20C, …);
Đánh số bằng tên ghép của số nhà nhỏ hơn và dấu
gạch ngang và số tự nhiên, bắt đầu từ số 1 (ví dụ:
số nhà phát sinh giữa hai nhà số 20 và số 22 thì đánh
số 20-1, 20-2, 20-3,…, 20-24, 20-25,….,22).
Đối với đoạn đường, phố mới xây dựng kéo dài
phía cuối của đường, phố thì thực hiện đánh số
nhà tiếp theo số nhà cuối cùng đã đánh của đường,
phố đó theo quy định của Thông tư này.
Đánh số nhà trong ngõ, ngác:
Đánh số nhà trong ngõ được thực hiện theo quy định
sau đây: Trường hợp ngõ chưa có tên riêng: tên ngõ được
đặt tên theo số nhà mặt đường, phố nằm kề ngay
trước đầu ngõ (có số nhà nhỏ hơn).
Chiều đánh số nhà trong ngõ: trường hợp ngõ nối thông
giữa hai đường, phố và đã đặt tên thì lấy chiều
từ nhà đầu ngõ sát với đường, phố mà ngõ mang tên
đến cuối ngõ.
Trường hợp ngõ nối thông giữa hai đường, phố và
chưa được đặt tên thì chiều đánh số nhà từ nhà
đầu ngõ sát với đường, phố có mặt cắt ngang lớn
hơn đến cuối ngõ.
Trường hợp ngõ chỉ có một đầu thông ra đường, phố
thì chiều đánh số nhà được thực hiện từ nhà đầu
ngõ sát với đường, phố đến nhà cuối ngõ.
Đánh số nhà trong ngách được thực hiện theo quy định
sau đây: Trường hợp ngách chưa có tên riêng: tên ngách
được đặt tên theo số nhà mặt ngõ nằm kề ngay trước
đầu ngách (có số nhà nhỏ hơn);
Chiều đánh số nhà trong ngách: trường hợp ngách nối
thông giữa hai ngõ và đã đặt tên thì lấy chiều từ
nhà đầu ngách sát với ngõ mà ngách mang tên đến cuối
ngách; trường hợp ngách nối thông giữa hai đường và
chưa được đặt tên thì chiều đánh số nhà từ nhà
đầu ngách sát với đường có mặt cắt ngang lớn hơn
đến cuối ngách. Trường hợp ngách chỉ có một đầu
thông ra ngõ thì chiều đánh số nhà được thực hiện
từ nhà đầu ngách sát với ngõ đến nhà cuối ngách.
Trường hợp nhà trong ngõ, ngách có tính chất đặc thù
thì Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định việc đánh
số.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ 15/10/2024./.
Hữu Tri